PHẦN IV. NHỮNG DẤU HIỆU BONG TRÓC TỪ NHỮNG TRỤ CỘT VƯƠNG HỖ NINH XÂY VÀ THIẾT CHẾ KINH TẾ CỦA TẬP CẬN BÌNH – KINH TẾ

Đóng góp bởi: Lê Hoàng 0 lượt xem Đăng ngày 24/09/2025

PHẦN IV. NHỮNG DẤU HIỆU BONG TRÓC TỪ NHỮNG TRỤ CỘT VƯƠNG HỖ NINH XÂY VÀ THIẾT CHẾ KINH TẾ CỦA TẬP CẬN BÌNH

  1. KINH TẾ

(Vui lòng nghe nếu bạn không có nghiều thời gian để đọc)

Khi dư luận toàn cầu còn đang mải tranh cãi xem chính sách thuế của Trump là cú đấm hay nhượng bộ thì nền kinh tế Trung Quốc đã tự hé lộ sự thật khó chối cãi. PMI rơi dưới ngưỡng 50 suốt nhiều tháng báo động đỏ cho sản xuất. Thất nghiệp trẻ tăng vọt, bất động sản đóng băng, doanh nghiệp nhỏ hấp hối.

Nội lực kinh tế từ lâu được Bắc Kinh tự ca ngợi là rồng châu Á này hóa ra chỉ là lớp vỏ sơn bóng, che phủ một hệ thống có thể đang hoại tử từ bên trong. Trước truyền thông, Trung Quốc vẫn nhấn mạnh sự ổn định, tiềm lực, khả năng tự cứu và nội lực kinh tế. Những dữ liệu và dấu hiệu trên thực tế cho thấy một xu hướng ngược lại. Họ đang đối mặt với khủng hoảng hệ thống, thể chế bất ổn, tốc độ tăng trưởng chậm lại, xã hội dạn nứt. Đây không còn là những vấn đề ngắn hạn mà là biểu hiện của một chu kỳ suy yếu mô hình.

Con số đang nói lên sự thật của nền kinh tế Trung Quốc. Khi các nhà phân tích kinh tế thế giới đang tập trung mổ sẻ vấn đề thương chiến Mỹ Trung 2025, một số người tin rằng việc chính quyền Trump xuống nước điều chỉnh thuế xuất đối với hàng hóa Trung Quốc là tín hiệu cho thấy nền kinh tế Trung Quốc sẽ phi mã trở lại bởi vì nó có nội lực mạnh mẽ. Một số khác thì cho rằng thuế quan của chính quyền Trump nhắm vào hàng hóa Trung Quốc đơn giản chỉ là góp gió thành bão vì tự thân nền kinh tế của họ đã lung lay ở nền tảng.

Dữ liệu công bố từ chính phủ Trung Quốc hồi đầu tháng 5/2025 cho thấy chỉ số PMI, chỉ số quản lý thu mua của Trung Quốc tiếp tục giảm ở mức 49 dưới 50 ngưỡng biểu thị suy giảm. PMI là một trong những chỉ số sớm và nhạy nhất để đo sức khỏe hoạt động sản xuất của nền kinh tế. Khi PMI giảm xuống dưới ngưỡng 50 như dữ liệu công bố cho thấy, nó đã phản ánh một loạt thực tế bất lợi. Ngưỡng 50 là ranh giới giữa mở rộng và thu hẹp. Trên 50 điểm có nghĩa là sản xuất đang mở rộng, tức là các nhà máy tăng đơn hàng, mở rộng quy mô, tuyển thêm lao động, tồn kho tăng hợp lý. Dưới 50 điểm nghĩa là sản xuất đang co lại, các nhà máy cắt giảm đơn hàng, sa thải lao động, trì hoãn mua nguyên vật liệu, tồn kho sụt giảm hoặc bán tháo. Việc PMI của Trung Quốc giảm liên tiếp dưới 50 điểm cho thấy khu vực sản xuất đang thu hẹp trong nhiều tháng liên tục, không còn là hiện tượng tạm thời.

Như chúng ta đã biết, các thành phần cấu thành chỉ số PMI gồm đơn hàng mới, việc làm, thời gian giao hàng của nhà cung cấp, sản lượng, tồn kho nguyên liệu. Khi mà PMI giảm thì đơn hàng mới giảm. tức là nhu cầu yếu cả trong và ngoài nước. Việc làm giảm đồng nghĩa với doanh nghiệp không dám tuyển thêm, sợ không tiêu thụ được hàng hóa. Tồn kho tăng bất thường hoặc sụt giảm nhanh tức là tâm lý phòng thủ, ngại đầu tư vào đầu vào sản xuất. Thời gian giao hàng nhanh hơn có nghĩa là nhà cung cấp không còn quá tải, tức là toàn chuỗi cung đang rảnh rỗi. Tóm lại, cả hệ sinh thái sản xuất đang bị bóp nghẹt vì niềm tin giảm sút. Và lưu ý, đây là số liệu kinh tế của Chính phủ Trung Quốc công bố chứ không phải là thông tin báo chí.

Điều này là đòn dáng và lập luận nội lực kinh tế của họ. Trung Quốc luôn viện dẫn quy mô thị trường 1,4 tỷ dân để biện minh cho nội lực tiêu dùng dồi rào. Tuy nhiên, khi mà PMI giảm dưới 50 nhiều tháng liên tiếp, điều đó cho thấy thị trường nội địa không hề hấp thụ tốt như là kỳ vọng hoặc là người dân không muốn chi tiêu hoặc doanh nghiệp không còn động lực đầu tư. Đây là lời bác bỏ gián tiếp. Nhưng rõ ràng đối với luận điểm cho rằng Trung Quốc vẫn có thể tự xoay trục nhờ tiêu dùng nội địa. Mặt khác thì PMI giảm tức là sản xuất giảm, tăng trưởng GDP cũng sẽ chậm lại. Điều này đặc biệt nguy hiểm trong năm 2025 khi mà Bắc Kinh đang cố gắng vực dậy sau khủng hoảng bất động sản và các đòn trừng phạt công nghệ từ phương Tây.

Với mức GDP tăng trưởng 2 con số hàng năm, nhà cao tầng mọc nhanh hơn nấm sau mưa, và niềm tin vào giấc mộng làm giàu, len lỏi từ đô thị tới thôn quê. Thế nhưng giấc mộng ấy, như chiếc bong bóng xà phòng khổng lồ, lấp lánh giữa ánh nắng vinh quang, thế nhưng rỗng ruột. Evergrande là tiếng nổ đầu tiên, dữ dội, chát chúa và thức tỉnh cả một thế giới đang mộng du trong tăng trưởng ảo. Đáng sợ, nó không chỉ là một đế chế gục ngã, mà là cách nó kéo theo cả chuỗi domino, nhà đầu tư mất trắng, nhà thầu phá sản, người dân thì vỡ mộng, giữa những căn hộ còn chưa kịp dựng xong móng. Khi tăng trưởng Trung Quốc trở thành bong bóng, bất động sản và tín dụng phản chủ.

Trong suốt hơn một thập kỷ, Trung Quốc đã phát triển thần tốc với công thức khá là dễ nhớ. Xây dựng thật nhiều, vẽ tiền thật nhanh. Bất động sản không chỉ là ngành kinh tế, nó là niềm tin, là chiếc vé đổi đời, là kênh làm giàu quốc dân. Từ các đại đô thị như Thượng Hải, Thâm Quyến cho tới những thị trấn heo hút, đâu đâu cũng thấy cần cầu, bê tông và những giấc mơ lên đời qua mua đất, xây nhà. Theo báo cáo từ IMF, bất động sản chiếm tới 25% đến 30% GDP của Trung Quốc. Một con số khổng lồ nếu so với mức khoảng từ 15% đến 18% ở các nền kinh tế phát triển. Nhiều chính quyền địa phương ở Trung Quốc, sống bằng tiền bán đất, đến mức mà năm 2020, nguồn thu này đã từng chiếm tới 40% tổng thu ngân sách và biến đất đai thành cái máy in tiền cho bộ máy địa phương.

Thế nhưng, để giữ cho cỗ máy ấy vận hành, Trung Quốc cần một thứ còn thiết yếu hơn cả bê tông và sắt thép, đó là dòng tiền. Và đó là lúc mà tín dụng trở thành huyết mạch của toàn bộ nền kinh tế. Thế nhưng, thay vì truyền máu để duy trì sự sống, Trung Quốc lại truyền tín dụng, như thể truyền nước tăng lực.

Nhanh, dồn dập và thiếu kiểm soát. Từ năm 2009 đến năm 2021, tổng lượng tín dụng trong nền kinh tế Trung Quốc đã tăng hơn gấp 4 lần, vượt mốc 35.000 tỷ đô, tương đương với khoảng 290% GDP quốc gia. Chỉ riêng giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2020, khối lượng cho vay chung và dài hạn đã tăng bình quân trên 13% mỗi năm. Các ngân hàng thương mại nhà nước đến địa phương thi nhau xả van, cung cấp vốn cho các tập đoàn bất động sản, dự án hạ tầng và cả những khoản vay tiêu dùng không cần kiểm định khắt khe. Không chỉ các ngân hàng, mà cả những nền tảng vay tiêu dùng, thậm chí là cả các ứng dụng tài chính trên điện thoại cũng đẩy mạnh cho vay. Từ vay xây nhà đến vay mua cả cấu bông. Theo báo cáo của FIS Rating, đến năm 2020, dư nợ tiêu dùng không thế chấp ở Trung Quốc đã vượt quá 8.000 tỷ nhân dân tệ, tương đương với 1.100 tỷ đô la. Phần lớn trong số đó, đến từ các nền tảng Fitech, như Angroup, GD Finance hay WeBank.

Và rồi thì, bong bóng vỡ. Khi giá nhà không thể tăng mãi. Khi người vay bắt đầu cạn kiệt khả năng chi trả. Khi ngân sách địa phương hụt thu vì đất không bán được. Cả hệ thống tài chính, bất động sản bắt đầu rạn nứt. Và trong bức tranh đó, Evergrande đã trở thành biểu tượng sụp đổ rõ ràng nhất. Tập đoàn từng là niềm tự hào quốc gia, với hơn 1.300 dự án bất động sản tại hơn 280 thành phố trên toàn lãnh thổ, từng đứng thứ 122 trong Fortune Global 500,  nay đã trở thành một nỗi ám ảnh. Tính đến cuối năm 2023, Evergrande đang ôm khối nợ khổng lồ là hơn 2,4 nghìn tỷ tệ, tương đương với hơn 330 tỷ đô la. Nó còn lớn hơn cả GDP của rất nhiều quốc gia đang phát triển. Chỉ riêng trong năm 2021, giá cổ phiếu của Evergrande đã lao dốc hơn 89%, khiến hàng loạt nhà đầu tư phải chết đứng.

Thế nhưng vấn đề ở đây không chỉ là Evergrande chết, mà nó còn kéo theo hàng loạt những người khác chết theo. Hơn 1,5 triệu người mua nhà bị ảnh hưởng trực tiếp do các dự án bị đình trệ. Trong số đó, thì phần lớn là mua nhà trên giấy, nghĩa là mua niềm tin và bản vẽ. Để rồi, họ ôm đống cảnh còn chưa xây xong móng, trong khi vẫn phải trả lãi ngân hàng hàng tháng từ 4-6%. Gần 8.000 nhà thầu và các đơn vị cung cấp nguyên vật điệu chưa được thanh toán đúng hạn, gây ra hiệu ứng domino phá sản dây chuyển. Đặc biệt là ở các tỉnh như Quảng Đông, Hà Bắc và An Huy, nơi mà Evergrande từng có nhiều dự án chiến lược. Ngay cả hệ thống ngân hàng quốc tế cũng đã bị ảnh hưởng. Trong đó thì HSBC, USB và Bangkok từng đổ hàng trăm triệu đô la vào trái phiêu Evergrande. Hiện đã bị mất giá gần như toàn bộ.

Với thị trường lao động, thanh niên thất nghiệp trên 20% kết hợp với PMI giảm càng tạo nên một vòng lần quẩn. Người trẻ không có việc giảm tiêu dùng, doanh nghiệp cắt giảm và thất nghiệp lại tiếp tục gia tăng. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì rơi vào trạng thái kiệt quệ dòng tiền. Thị trường nội địa không còn đủ sức tiêu thụ trong khi xuất khẩu suy yếu do căng thẳng thương mại với Hoa Kỳ, Châu Âu và sự cạnh tranh từ các quốc gia chi phí thấp hơn như là Việt Nam hay Ấn Độ. Quy mô 1,4 tỷ dân không đồng nghĩa với sức mua. Khi tầng lớp trung lưu bị giảm thu nhập, thanh niên thất nghiệp tăng cao, niềm tin tiêu dùng sụt giảm thì quy mô thị trường sẽ trở thành một cái xác rỗng.

Bên cạnh đó, chỉ số giá tiêu dùng CPI của Trung Quốc hiện tại chỉ loanh quanh ở mức 0,5 %, thấp hơn nhiều so với mức lý tưởng 2% ở các nền kinh tế phát triển. CPI dưới 1% là tín hiệu cảnh báo nghiêm trọng cho thấy là nền kinh tế đang thiếu sức sống. Nếu mà xu hướng giảm phát tiếp tục thì Trung Quốc có thể đối mặt với một giai đoạn suy thoái kinh tế dài hạn. Tác động lớn hơn của giảm phát đến người tiêu dung, là suy giảm niềm tin, kéo dài thời gian trì hoãn chi tiêu, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống. Với doanh nghiệp thì thua lỗ phá sản và sa thải hàng loạt, khiến thị trường lao động thêm bất ổn. Với hệ thống tài chính, thì lợi nhuận của ngân hàng giảm mạnh, dòng tiền trong nền kinh tế bị tắc nghẽn, và trong bối cảnh này Trung Quốc cần các biện pháp khẩn cấp để ngăn chặn giảm phát tiếp diễn, như là kích cầu nội địa thông qua các gói hỗ trợ tiêu dung, và giảm thuế cho doanh nghiệp, hay là đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghệ nhằm tạo việc làm, và thúc đẩy sản xuất tiếp tục cải thiện niềm tin thị trường bằng cách minh bạch thông tin, và giải quyết khủng hoảng bất động sản triệt để.

Nội lực thực sự của một nền kinh tế nó nằm ở ba điểm. Đó là khả năng sáng tạo, sức mua thật sự và hiệu quả luân chuyển vốn. Hiện tại thì, cả ba yếu tố này đều đang giảm sút tại Trung Quốc.

Trung Quốc đang cố gắng thoát khỏi khủng hoảng tăng trưởng bằng cách đặt cược vào các ngành công nghệ chiến lược như là trí tuệ nhân tạo, AI, xe điện, EV và bán dẫn. Tuy nhiên, tham vọng này đối mặt với nhiều rào cản lớn. Ngành chip thì vẫn bị kiểm soát bởi các nước phương Tây. Dù Bắc Kinh đổ hàng trăm tỷ đô vào phát triển bán dẫn nội địa, các công ty như là SMIC vẫn phụ thuộc vào máy móc và công nghệ từ Hà Lan, Hoa Kỳ và Nhật Bản. Các lệnh cấm xuất khẩu máy EUV đã bóp nghẹt con đường tăng tốc công nghệ của Trung Quốc. Xe điện của họ như là BYD, Neo hay là XP tuy chiếm lĩnh thị trường nội địa nhưng khi xuất khẩu ra châu Âu thì lại vấp phải rào cản thuế quan và các cuộc điều tra chống trợ giá từ EU. Điều này khiến tăng trưởng ngành xe điện đứng trước nguy cơ bị bão hòa nội địa, phong tỏa quốc tế.

Ngành AI tại Trung Quốc dù phát triển mạnh về ứng dụng dân sự nhưng cũng thiếu đột phá lõi về mô hình và thuật toán. Các công ty bị ngăn tiếp cận GPU cao cấp từ Nvidia. Điều này khiến năng lực đào tạo mô hình tiên tiến của họ tụt lại sau Hoa Kỳ từ 2 đến 3 năm. Chiến lược công nghiệp mới vì vậy dễ dẫn đến hiện tượng lạm phát năng lực sản xuất.

Trung Quốc sản xuất dư thừa nhưng không thể xuất khẩu hoặc tiêu thụ trong nước do cầu yếu, bị cấm vận công nghệ hoặc là rào cản thương mại. Bối cảnh kinh tế này cũng là một lời giải thích cho báo cáo mà tờ Washington Post đã viết về chiến dịch không rượu không hoa đối với quan chức Trung Quốc. Và rõ ràng nó được phát động như một bước mở rộng của phong trào kiểm soát lãnh đạo trong bối cảnh khó khăn kinh tế.

Mới nhất, lệnh cấm tổ chức tiệc xa hoa, cấm sử dụng ô tô cao cấp, cấm tặng hoa trong hội họp hay sự kiện lớn. Đây không đơn thuần là chỉ để tiết kiệm vài trăm nghìn nhân dân tệ. Đó là một tín hiệu chính trị. Trong bối cảnh nội bộ lòng tin người dân vào đảng sụt giảm do khủng hoảng bất động sản, thất nghiệp lan rộng, chính quyền Trung Quốc cần phải tạo ra hình ảnh thanh liêm hơn, gần gũi hơn với quần chúng. Đây chính là cách mà ông Tập Tận Bình chọn để duy trì tính chính danh. Tuy nhiên, sâu xa hơn là nỗi lo mất kiểm soát nội bộ. Khi nền kinh tế suy yếu, Đảng Cộng sản Trung Quốc không còn có thể dùng tăng trưởng làm nguồn hợp pháp hóa quyền lực. Họ buộc phải dùng kiểm soát và giám sát tư tưởng để giữ đảm bảo thống nhất mệnh lệnh chỉ đạo.

Chiến dịch thắt lưng bộc bụng vì thế không chỉ là biện pháp kinh tế mà là phương tiện của điều khiển động lực chính trị. Trên thực tế, nhiều địa phương phản ánh rằng sự sợ hãi trong hành chính gia tăng, các quan chức không dám ra quyết định, sợ bị quy chế. Hệ quả ngược lại là một bộ máy quan liêu trở nên trì trệ, cứng nhắc và mất động lực. Và trong bối cảnh đó, luận điểm cho rằng Trung Quốc có nội lực để vượt qua khó khăn lại bị thách thức. Nội lực để vượt khủng hoảng không chỉ cần quy mô hay chính quyền trung ương mà cần sự minh bạch, linh hoạt, khả năng hồi phục niềm tin và khả năng huy động được nguồn lực xã hội trong khi Trung Quốc hiện nay đang thiếu cả bốn yếu tố này.

Nội lực kinh tế Trung Quốc: Sự hiểu lầm mang tính hệ thống. Việc cho rằng Trung Quốc có nội lực mạnh thường xuất phát từ ba ngộ nhận sau đây. Thứ nhất, quy mô bằng sức mạnh. Dân số đông và hệ thống sản xuất lớn không đồng nghĩa với khả năng phục hồi nếu niềm tin thị trường và tiêu dùng suy sụp. Thứ hai, kiểm soát bằng ổn định. Mô hình kiểm soát chặt chẽ không tạo ra sức bật lâu dài nếu không đi kèm khả năng sáng tạo và phản biện. Và thứ ba đó là công nghệ thì bằng tự chủ. Việc sao chép và ứng dụng nhanh không đồng nghĩa với năng lực độc lập về công nghệ lõi, nhất là khi bị bóp nghẹt bởi cấm vận toàn cầu. Thực chất, nội lực kinh tế phải là tổng hòa giữa thể chế linh hoạt, xã hội tự tin, doanh nghiệp sáng tạo và thị trường minh bạch. Trung Quốc hiện đang thiếu nhiều yếu tố trong số này.

Một hệ thống chính trị khép kín, thiếu phản biện nội bộ và trở nên ngày càng trì trệ trong đổi mới. Các cải cách kinh tế từng làm nên kỳ tích của Trung Quốc dưới thời Đặng Tiểu Bình như trao quyền cho địa phương, khuyến khích tư nhân, cởi chói cho thị trường hiện đang bị đảo ngược, tư nhân bị siết chặt. Các tập đoàn lớn như là Alibaba, Ant Group, Didi bị thanh trừng hoặc quốc hữu hóa một phần. Khẩu hiệu thịnh vượng chung thay thế cho làm giầu là vinh quang. Điều này làm giảm sút nghiêm trọng động lực khởi nghiệp và đổi mới trong xã hội Trung Quốc. Nhiều quan chức địa phương không dám đưa ra sáng kiến vì sợ đi trệch tư tưởng trung ương. Bộ máy hành chính rơi vào tình trạng trì trệ thụ động làm cho có, chờ lệnh không hành động. Đây chính là điều mà các học giả Trung Quốc gọi là hội chứng quan chức nằm yên. Trong bối cảnh này, bất kỳ đê xuất cải cách nào dù là tài khóa, đất đai, giáo dục hay là khoa học công nghệ đều đối mặt với giao cản là sự sợ hãi và thiếu cơ chế phản hồi linh hoạt.

Mô hình cai trị hiện tại quá chú trọng vào kiểm soát và duy trì trật tự thay vì nuôi dưỡng năng lực sáng tạo từ bên dưới. Một quốc gia không thể dựa vào một bộ óc trung ương duy nhất để xử lý hàng nghìn vấn đề kinh tế xã hội phức tạp. Khi hệ thống không còn khuyến khích phản biện, cũng không chấp nhận thất bại thử nghiệm thì nó rơi vào trạng thái đóng băng chính sách, vừa không đổ vỡ nhưng cũng vừa không tiến lên được. Vì thế, trong khi các quốc gia dân chủ có thể đối mặt với khủng hoảng bằng cách thay đổi chính phủ, cải tổ chính sách hoặc chấp nhận thất bại thị trường để tái cấu trúc thì Trung Quốc lại thiếu công cụ đó. Sự tập quyền trở thành điểm nghẽn lớn nhất, ngăn cản họ bước sang một chu kỳ phát triển mới.

Trung Quốc dưới thời Chủ tịch Tập Cận Bình không chỉ hướng nội mà còn thể hiện rõ tham vọng trở thành siêu cường toàn cầu. Từ sáng kiến vành đai con đường, BRICs đến chiến lược an ninh toàn cầu cho đến việc phô diễn sức mạnh quân sự tại biển Đông, eo biển Đài Loan, Bắc Cực và không gian vũ trụ, tất cả đều cho thấy Bắc Kinh đang muốn vẽ lại trật tự thế giới. Tuy nhiên, khi tham vọng đối ngoại ngày càng lớn thì các mâu thuẫn nội tại cũng ngày càng gay gắt. Việc đổ tiền ra bên ngoài để xây dựng cảng biển, đường sắt và sân bay ở châu Phi, Trung Á Nam Mỹ khiến dư luận trong nước đặt câu hỏi đó là tại sao không đầu tư để cứu lấy hệ thống y tế, giáo dục, nhà ở đang lao đao trong nước. Ở cấp độ quốc tế, Trung Quốc ngày càng bị nghi ngờ, cảnh giác cao độ sau các hành động hung hăng của Bắc Kinh. Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản thì tăng cường cấm vận công nghệ và cắt chuỗi cung ứng khỏi Trung Quốc. Sự mâu thuẫn nằm ở chỗ để giữ hình ảnh siêu cường, Trung Quốc buộc phải đẩy mạnh đầu tư quân sự ngoại giao truyền thông. Trong khi ở trong nước, ngân sách địa phương cạn kiệt, chính sách tài khóa bị bó hẹp và các công ty tư nhân mất niềm tin và triển vọng dài hạn.

Điều nguy hiểm là trong lịch sử khi các quốc gia rơi vào tình trạng khủng hoảng nội bộ nhưng vẫn giữ ảo tường quyền lực bên ngoài thì họ dễ trượt vào con đường phiêu lưu đối ngoại. Đối với Trung Quốc, các điểm nóng như Đài Loan, Biển Đông, biên giới Ấn Độ hoặc bán đảo Triều Tiên có thể bị sử dụng như là cửa thoát áp lực nhằm chuyển hướng sự chú ý khỏi khủng hoảng trong nước.

Tuy nhiên, càng vươn ra thì Trung Quốc càng bị bao vây. Đó chính là nghịch lý của quyền lực không cân xứng khi hình ảnh bên ngoài phình to nhưng nền móng bên trong lại yếu đi rõ rệt. Những gì đang diễn ra tại Trung Quốc không còn là các hiện tượng riêng lẻ có thể lý giải bằng các yếu tố ngắn hạn. Đó là một chuỗi các chuyển động đồng thời từ siết chặt chi tiêu trong bộ máy quan chức, các hành vi bạo lực ngầm trong xã hội, đình trệ sản xuất, khủng hoảng bất động sản cho đến sự đóng băng cải cách thể chế và phản ứng đối ngoại mang tính phiêu lưu. Tất cả hợp thành một chu kỳ điều chỉnh mang tính hệ thống. Bắc Kinh đang bước vào giai đoạn hậu tăng trưởng khi mô hình phát triển dựa trên đầu tư công, công nghiệp, giá rẻ và bất động sản đã cạn kiện độnh lực. Những gì từng giúp nước này trỗi dậy thành công lại đang trở thành cánh nặng.

Quy mô dân số lớn nhưng già hóa nhanh. Hệ thống sản xuất khổng lồ nhưng tiêu thụ yếu. Mô hình tập trung quyền lực hiệu quả trong ngắn hạn nhưng cản trở cải cách dài hạn. Và lúc này có ba con đường đang hiện ra trước mắt Trung Quốc. Một là tiếp tục siết chặt quản lý, kiểm soát và hy vọng ổn định. Đây là con đường dễ đi nhất về mặt chính trị. Thế nhưng lại tiêm ẩn rủi ro cao. Tăng trưởng sẽ tiếp tục chậm lại, xã hội ngày càng bất mãn, các điểm nóng sẽ xuất hiện ngẫu nhiên và khó kiểm soát. Hai là mở cửa cải cách thể chế, cho phép phản biện, khôi phục vai trò của tư nhân, cải tổ hệ thống phân bổ nguồn lực. Đây là lối thoát thực chất nhưng đối mặt với nguy cơ mất kiểm soát nội bộ nếu không có lộ trình rõ ràng và lãnh đạo dám chịu rủi ro. Và thứ ba đó là chiến lực pha trộn, quản trị phòng thủ nhưng chấp nhận tăng trưởng thấp. Mô hình này có thể giúp họ duy trì ổn định tương đối nhưng sẽ khiến nước này lùi lại phía sau trong cuộc cạnh tranh toàn cầu về công nghệ, năng suất và đổi mới.

Vậy là luận điểm Trung Quốc có nội lực mạnh chỉ còn đúng nếu nhìn từ góc độ tài nguyên và quy mô. Nhưng trong thế kỷ 21, các yếu tố quyết định sức mạnh quốc gia là sự linh hoạt thể chế, độ sâu của thị trường vốn, sự tin tưởng xã hội và năng lực sáng tạo công nghệ. Cả bốn trụ cột này đang bị sói mòn tại Trung Quốc. Điều cần thiết lúc này không phải là một cuộc chiến chống lại hình ảnh Trung Quốc mà là một sự hiểu đúng về chiều sâu thách thức mà nước này đang đối mặt. Những quốc gia khác từ ASEAN, EU đến Hoa Kỳ cần nhìn nhận Trung Quốc không chỉ bằng vỏ ngoài cường quốc mà cả bằng những dấu hiệu bất ổn nội sinh để điều chỉnh chiến lược đối ngoại một cách tỉnh táo, linh hoạt và lâu dài. Và với chính Trung Quốc, nếu không dám bước qua ngưỡng cửa cải cách sâu rộng thì cỗ máy từng tăng trưởng thần kỳ ấy sẽ rơi dần vào trạng thái hùng mạnh hình thức nhưng suy yếu về bản chất.

Gần đây nhất, một đòn cực mạnh của Trump ở Trung Đông nhưng đang cho thấy việc bẻ gãy trục IRAN và thâm ý hất cẳng Trung Quốc. Không cần chiến tranh, không cần nổ sung, chỉ với 72 giờ, Tổng thống Donald Trump đã vẽ lại toàn bộ bản đồ địa chính trị Trung Đông. Ả Rập Saudi, UAE, Qatar từng là mảnh ghép mong manh giữa dầu mỏ và bất ổn, giờ trở thành những vệ tinh mới xoay quanh trục Washington. Kết quả là gì? 3200 tỷ đô la đổ vào các thỏa thuận thương mại và quốc phòng. Iran bị đẩy lùi về thế cô lập. Đồng nhân dân tệ bị đánh bật khỏi giấc mơ năng lượng toàn cầu. Và SRI từng là đồng minh thân cận nhất của Teheran nay lại bắt tay với Hoa Kỳ. Trump không đem đến những bài giảng về dân chủ. Ông đem đến hợp đồng công nghệ và sự lựa chọn sống còn. Thông điệp rất rõ rang, muốn bảo vệ đất nước ư? Chọn Mỹ. Muốn phát triển công nghệ AI ư? Chọn Mỹ? Muốn giữ vững chủ quyền. mà không bị giám sát bởi Trung Quốc sao? Cũng hãy chọn Mỹ. Chuyến đi ba ngày của Trump không chỉ là một chiến thắng ngoại giao mà là một cú knock out địa chính trị khiến cả Bắc Kinh, Teheran và cả Châu Âu phải sững sờ.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *