PHẦN V: BỘ TỨ TRỤ CỘT NGHỊ QUYẾT 57 – 59 – 66 – 68 CỦA VIỆT NAM

Đóng góp bởi: Lê Hoàng 0 lượt xem Đăng ngày 24/09/2025

PHẦN V: BỘ TỨ TRỤ CỘT NGHỊ QUYẾT 57 – 59 – 66 – 68 CỦA VIỆT NAM VÀ CẦN THÊM NHỮNG GÌ, CHIẾN PHÁP, SÁT PHÁP NÀO ĐỂ CHÚNG TA TỰ TIN CẤT CÁNH TRONG KỶ NGUYÊN MỚI

  1. BỘ TỨ TRỤ CỘT NGHỊ QUYẾT 57 – 59 – 66 – 68

(Vui lòng nghe nếu bạn không có nghiều thời gian để đọc)

Ví von phép màu châu Á thì từng là danh xưng dành cho Hàn Quốc, Singapore hay Đài Loan, những nền kinh tế bứt phá sau chiến tranh và trở thành hình mẫu của cả khu vực. Thế nhưng vừa mới đây, với những chuyển động mạnh mẽ từ thể chế đến thực tiễn, Việt Nam đang dần hội tụ đủ những yếu tố để cái danh xưng này có thể được gọi tên mình. Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 4/5/2025 mới đây, đã như một phát pháo mở màn cho cuộc cách mạng lớn nhất lịch sử kinh tế tư nhân Việt Nam.

Tổng bí thư Tô Lâm đã phát biểu tại Hội nghị triển khai Nghị quyết số 66 và Nghị quyết số 68: “từ vị trí thứ yếu trở thành trụ cột phát triển, song hành cùng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tạo thành thế “kiềng ba chân” vững chắc cho nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập thành công. Phát triển kinh tế tư nhân không chỉ là yêu cầu về mặt kinh tế mà còn là mệnh lệnh chính trị, nhằm củng cố nền tảng tự chủ kinh tế quốc gia, nâng cao sức cạnh tranh và khả năng thích ứng trong một thế giới đầy biến động”.

Sẽ không còn rè rặt, không còn cơ chế xin cho, mà là công khai trao quyền chắp cánh cho những đại bàng nội cất cánh. Từ vị trí từng bị xem là bổ sung, giờ đây thì khu vực tư nhân chính thức được gọi tên là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia.

Nghị quyết 68 ra đời như một tiếng chuông thức tỉnh, không chỉ với giới làm chính sách mà đặc biệt là với giới cộng đồng doanh nhân, những người đã từ lâu quen sống trong một trạng thái nửa sáng, nửa tối, nửa tin, nửa ngờ, nửa tiến, nửa lui. Số 68 được coi là mang đến kỳ vọng lộc phát cho cả một nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Khi một văn kiện của Bộ chính trị long trọng xác định khu vực kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia. Điều đó thì không đơn thuần là một câu chữ đẹp, đó là một sự công nhận chính danh. Lần đầu tiên trong lịch sử mà những người bị gọi là đi buôn, những người sản xuất, những người khởi nghiệp, được nhìn nhận như chiến sĩ trên mặt trận kinh tế. Họ sẽ không còn là những đối tượng bị quản lý mà trở thành đối tác đồng hành cùng phát triển đất nước.

Cái cảm giác như có điều gì đó vỡ òa, không phải là cảm xúc cá nhân mà là tâm thế của cả một thế hệ đã từng phải chịu đựng những rào cản vô hình bằng cái tên cơ chế, thủ tục, tư duy lạc hậu, và cả sự kỳ thị vô thức từ xã hội. Bởi trong một thời gian dài, tư nhân dù có đóng góp không hề nhỏ nhưng vẫn thường bị nhìn bằng ánh mắt dè chừng như một thứ bất đắc dĩ tồn tại song hành bên cạnh nhà nước, chứ chưa từng được một lần gọi tên là trụ cột.

Có một thời thì người ta vẫn quen miệng mà nói rằng kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể là nền tảng, còn kinh tế tư nhân không có dòng nào trong các văn kiện dám nói thẳng, nói rõ rằng nó là động lực chứ đừng nói là động lực quan trọng nhất. Chính vì vậy, việc Nghị quyết 68 lần đầu tiên xác lập vai trò một cách công khai là một bước ngoặt về tư duy. Nó không chỉ là một sự thừa nhận mà còn là một lời khích lệ, một sự trao quyền.

Từ nay, sẽ không còn chuyện né tránh, không còn chờ đợi thử nghiệm mà đã tới lúc tư nhân phải được đặt đúng vị trí chiến lược trong bản đồ kinh tế quốc gia. Khi một văn kiện chính trị khẳng định là phải tháo gỡ những vòng luẩn quẩn như không có đất thì không vay được vốn, mà không có vốn thì cũng không thể xin được đất.. thì đó sẽ không phải là chuyện kỹ thuật, đó là chuyện thể chế rồi. Bao năm qua rất nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa bị trói chân vì chưa có tài sản đảm bảo và bị vùi trong thủ tục xin cấp mặt bằng sản xuất vì một miếng đất phải qua cả chục cửa để có được xác nhận.

Cái xin cho âm mỉ, cái không quản được thì cấm.. đã kéo dài khiến cho không ít người mất niềm tin, chọn cách sống an toàn, co cụm hoặc là bỏ cuộc giữa trừng. Giờ đây, Nghị quyết 68 như một lời hứa sẽ giải phóng năng lượng của khu vực kinh tế tư nhân bằng việc trao quyền tiếp cận bình đẳng các nguồn lực thiết yếu như đất đai, vốn, công nghệ và nhân lực chất lượng cao. Không ai còn có thể nói anh là tư nhân nên anh không được ưu tiên nữa, không ai còn quyền phân biệt trong các chính sách phát triển.

Thế nhưng để điều đó không còn chỉ nằm trên giấy, không thể không nhắc đến Nghị quyết số 66/NQ-TW ban hành chỉ vài ngày trước đó, một cú đút thể chế thực sự. Bởi muốn kinh tế tư nhân phát triển, thì trước hết phải có một môi trường pháp lý công bằng, rõ ràng và ổn định. Mà để có được điều này thì không còn cách nào khác ngoài việc phải dọn sạch những rào cản và luật lệ, những điều kiện kinh doanh phi lý, những văn bản trồng chéo và đặc biệt là thói quen hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế.

Người đứng đầu Đảng ta đã nói thẳng, là phải tạo một môi trường pháp lý thuận lợi, binh bạch, chi phí tuân thủ thấp và tuyệt đối là không hình sự hóa quan hệ quốc tế. Doanh nhân cần sự bảo vệ pháp lý, không phải nạn nhân của những rủi ro pháp lý mơ hồ. Và quan trọng hơn cả là những con số cụ thể. Bởi một Nghị quyết chỉ thực sự sống khi đã nghiên cứu thực tiễn nội tại và kinh nghiệm quốc tế tương đồng, nó đặt ra những mục tiêu lượng hóa rõ ràng và khả năng thực hiện.

Đến năm 2030, mục tiêu là sẽ có 2 triệu doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó ít nhất là 20 doanh nghiệp đủ lớn để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Kinh tế tư nhân sẽ chiếm hơn 55% GDP, đóng góp gần 40% ngân sách, sử dụng đến 85% lực lượng lao động xã hội.

Tốc độ tăng trưởng bình quân phải đạt từ 10% đến 12% mỗi năm, tức là nhanh hơn cả tốc độ phát triển của nền kinh tế nói chung. Không ai còn được quyền xem nhẹ vai trò của tư nhân, khi những con số này là mục tiêu quốc gia rồi. Và xa hơn nữa, tầm nhìn đến năm 2045, tức là tròn 100 năm thành lập đất nước, Việt Nam phải có ít nhất là 3 triệu doanh nghiệp tư nhân và đóng góp trên 60% GDP và sẽ vươn lên top đầu khu vực về năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Nghị quyết 68 đã không chỉ dừng lại ở việc vẽ đường, nó chỉ ra rõ từng nhóm nhiệm vụ, phân tầng rõ ràng theo quy mô doanh nghiệp. Từ những tập đoàn tư nhân lớn có thể dẫn dắt chuỗi cung ứng toàn cầu, đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang trật vật xoay sở trong nước. Với nhóm doanh nghiệp lớn, nhà nước không chỉ khuyến khích mà sẽ còn chủ động đặt hàng, đấu thầu, thậm chí là chỉ định thầu để họ tham gia vào các dự án quốc gia, điều trước đây vốn là sân chơi độc quyền của doanh nghiệp nhà nước.

Với nhóm nhỏ và siêu nhỏ, chính trách mới sẽ miễn phí nền tảng số, phần mềm kế toán, dịch vụ tư vấn pháp lý, khuyến khích hộ kinh doanh cá thể chuyển đổi lên doanh nghiệp với môi trường thuế, bảo hiểm và kế toán đơn giản, minh bạch, dễ áp dụng. Một sự nâng đỡ toàn diện từ gốc tới ngọn, từ quy mô từ kỹ năng, từ pháp lý tới tài chính.

Một điểm đột phá nữa là chính sách về vốn, nơi mà doanh nghiệp tư nhân luôn chịu thiệt thòi. Nghị quyết 68 không chỉ nói chung về việc tạo điều kiện tiếp cận nguồn vốn, mà đi vào rất cụ thể. Sẽ phát triển tín dụng xanh, quỹ bảo lãnh tín dụng ở cả Trung ương và địa phương, hoàn thiện pháp lý cho các quỹ đầu tư địa phương và quỹ đầu tư tư nhân, cho phép tài trợ vốn mồi cho các dự án khởi nghiệp, đa dạng hóa hình thức cho vay, không cần nhận tiền gửi. Tức là không chỉ mở đường mà còn đưa sẵn phương tiện, không chỉ khuyến khích mà còn đồng hành thực sự.

Không thể không nhắc tới giải pháp kết nối, điều mà trước đây hiếm khi được đặt đúng tầm. Doanh nghiệp tư nhân không thể phát triển đơn lẻ, họ cần được kết nối với doanh nghiệp nhà nước, với các FDI, với hệ sinh thái ngành hàng và vùng nguyên liệu. Nghị quyết này sẽ khẳng định, sẽ khuyến khích các doanh nghiệp lớn dẫn dắt chỗ cung ứng nội địa, chia sẻ công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật và sử dụng sản phẩm từ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây là cách xây dựng một hệ sinh thái kinh tế tư nhân bền vững, nơi mà mọi mắt xích sẽ đều có giá trị, chứ không chỉ chạy theo những tên tuổi tỷ đô. Và tất cả những điều này, sẽ là vô nghĩa, nếu không có một tinh thần sốc tới như chúng ta đã từng có trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975.

Tổng Bí thư đã ví von, phải thần tốc hơn nữa, táo bạo hơn nữa, nếu không thì sẽ bị bỏ lại phía sau trong một cuộc đua toàn cầu không khoan nhượng. Trong bối cảnh công nghệ thay đổi từng ngày, trong khi thế giới đã bước sang kỷ nguyên AI, công nghệ sinh học, kinh tế tuần hoàn, nếu cứ mãi loay hoay với những điều kiện kinh doanh kiểu cũ, những quy định pháp lý trồng chéo, những tư duy quản cho chắc, thì sẽ tự đánh mất cơ hội định vị Việt Nam trên bản đồ kinh tế thế giới.

Một điều quan trọng hơn cả, đó là Nghị quyết 68 là lời cam kết cho một sự đổi vai giữa nhà nước và doanh nghiệp. Nhà nước sẽ không còn là người quản lý theo nghĩa kiểm soát nữa, mà sẽ phải là kiến tạo, phục vụ và đồng hành. Doanh nghiệp không còn là người bị theo dõi, bị xét duyệt từng bước đi, mà phải được tin tưởng, được bảo vệ và được khuyến khích phát triển. Đó là một mối quan hệ mới, thân thiện, minh mạch và cùng nhau xây dựng.

Sau nhiều năm vất vả, sau hàng loạt những cuộc cải cách nửa vời, sau bao thất bại vì thiếu môi trường thuận lợi, thì khu vực kinh tế tư nhân cuối cùng cũng được thừa nhận như một lực lượng chính nghĩa, một trụ cột trong giấc mơ phát triển của đất nước. Không ai còn có thể nói tư nhân chỉ là phần bổ sung. Ngược lại, giờ đây họ là mũi nhọn, là tiên phong, là những người có thể tạo ra những đột phá mang thương hiệu Việt cả trong nước và toàn cầu.

Những con số mà Chính phủ đưa ra trong báo cáo kinh tế gần nhất chính là tuyên ngôn của một quốc gia đang trỗi dậy, tăng trưởng trên 8%. Quy mô nền kinh tế vượt 500 tỷ đô la, dự kiến lọt vào top 30 nền kinh tế lớn nhất thế giới. GDP bình quân đầu người vượt mốc 5.000 đô la trong năm 2025. Không phải là giấc mơ xa vời, mà là hiện thực đang hình thành từng ngày.

Với 2 trụ cột chính là ổn định kinh tế vĩ mô và cả các thể chế làm bệ phóng. Về tài khoá, Chính phủ đặt ra cam kết quyết liệt là chống thất thu, thu đủ, thu đúng, thu kịp thời, tăng cường thu từ kinh tế số, đặc biệt là thông qua hệ thống thuế điện tử, khởi tạo từ máy tính tiền, tăng thu ngân sách trên 15%. Trong khi đó, bội chi ngân sách có thể được nâng lên từ 4-4,5% GDP trong những trường hợp cần thiết.

Nhưng đi kèm với cam kết cắt giảm chi thường xuyên, dồn lực cho đầu tư phát triển, một bước đi chiến lược nhằm tạo dư địa cho chương trình hạ tầng lớn, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, vốn là điểm nghẽn cố hữu trong nhiều năm vừa qua. Năm 2025, mục tiêu giải ngân đầu tư công là 100% kế hoạch, một tỷ lệ chưa từng có trong tỷ lệ nếu đạt được.

Cùng lúc, Việt Nam đang tích cực tận dụng lợi thế từ 17 Hiệp định Thương mại Tự do FTA đã ký, mở rộng vòng tay hợp tác với các nước vừa nâng cấp quan hệ, đàm phán các thỏa thuận thương mại mới theo tinh thần của Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới với những mục tiêu rất cụ thể là hội nhập về kinh tế, về chính trị, quốc phòng, an ninh, về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, văn hóa, xã hội, du lịch, môi trường, giáo dục – đào tạo, y tế và các lĩnh vực khác.

Không thể thiếu trong trụ cột còn lại, trụ cột có thể coi là xương sống để Việt Nam tìm thấy chìa khóa mở ra cánh cửa bước vào kỷ nguyên đổi mới của dân tốc, đó là chuyển đổi số toàn diện. Đó chính là lý do Nghị quyết số 57-NQ/TW được Bộ Chính trị ban hành sớm nhất khi xác lập mục tiêu tăng trưởng và phát triển của chúng ta. Nghị quyết này không chỉ khẳng định tầm quan trọng của khoa học, công nghệ trong chiến lược phát triển quốc gia mà còn tạo ra những cơ hội to lớn để Việt Nam có thể đẩy mạnh tiến trình hội nhập và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Với Nghị quyết 57-NQ/TW, con đường chiến lược và thể chế căn cốt để Việt Nam bước vào kỷ nguyên phát triển mới – được định hình và tạo thành nguồn lực, hào khí mạnh mẽ thôi thúc cả dân tộc tự tin, vươn mình tiến lên thịnh vượng. Tạo ra hào khí và động lực thực sự mạnh mẽ cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đặc biệt, các nhà khoa học nhìn nhận Nghị quyết này như một cơ hội để đưa nghiên cứu khoa học ra khỏi những thách thức lâu dài, trong đó có vấn đề tài chính, cơ sở hạ tầng và cơ chế chính sách chưa đủ mạnh để thúc đẩy sáng tạo, chuyển đổi số để giải quyết các vấn đề cấp bách của đất nước, khai phóng nguồn lực phát triển nhanh và bền vững.

Tất cả bộ tứ trụ cột, nhằm mở rộng không gian thị trường trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ và rủi do địa chính trị toàn cầu đang bủa vây thương mại. Thế nhưng, sức bật của Việt Nam không chỉ đến từ kinh tế vĩ mô hay hạ tầng thương mại, mà còn từ cuộc cải cách thể chế đang được đẩy nhanh hơn bao giờ hết. Với mục tiêu rất cụ thể là bãi bỏ ít nhất 30% điều kiện đầu tư kinh doanh không cần thiết, giảm 30% thời gian và chi phí thủ tục hoàn chính. Đây là một lời hứa mạnh mẽ rằng, sự đơn giản hóa sẽ không chỉ nằm trên giấy.

Trung tâm phục vụ hành chính công sẽ được số hóa, tích hợp dữ liệu, chia sẻ liên thông, không còn chuyện doanh nghiệp chạy vòng vòng xin giấy phép ở hàng chục cơ quan. Cũng không còn vùng sám pháp lý để cán bộ trì hoãn hay nhũng nhiễu nữa. Tinh thần không làm nửa vời, mà làm tới cùng, làm triệt để mà Người đứng đầu Chính phủ nhấn mạnh, là lời khẳng định về một mô hình quản trị nhà nước mới, nơi mà hiệu quả, minh bạch, và phục vụ là nguyên lý hoạt động chứ không còn là khẩu hiệu nữa.

Chính từ những nền tảng đó Việt Nam đang khiến cả khu vực phải nhìn lại. Theo báo cáo mới nhất từ Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh tại London, Việt Nam sẽ chính thức vượt Malaysia, Singapore và Philippines để trở thành nền kinh tế lớn thứ 3 Đông Nam Á trong năm nay với GDP đạt 571 tỷ đô la. Đáng nói hơn, theo dự báo của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, vào năm 2027, GDP của Việt Nam sẽ chạm ngưỡng 690 tỷ đô la và chỉ còn cách Thái Lan đúng 2 tỷ đô la. Và đến năm sau, năm 2028 Việt Nam được dự báo là sẽ chính thức vượt Thái Lan để trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 trong khu vực chỉ đứng sau mỗi Indonesia. Đó sẽ là một sự xóa ngôi ngoạn mục. Nó diễn ra không phải bằng truyền thông, không phải bằng những tuyên bố chính trị, mà sẽ bằng những con số thực tế nhất từ sản xuất, xuất khẩu, đầu tư và tiêu dùng.

Tất cả đều tăng trưởng bền vững qua từng năm. Và chưa dừng lại ở đó Trung tâm này còn đặt ra mục tiêu táo bạo đến năm 2036, Việt Nam khi đó sẽ vượt qua cả Ba Lan, Thụy Sĩ, Bỉ và Australia để lọt vào top 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Một kỳ tích mà chỉ một vài thập niên trước thôi, có lẽ khó ai có thể hình dung nổi.

Tuy nhiên, để thực hiện được giấc mơ đó Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những bài toán không hề dễ dàng. Đà chững lại của thương mạng toàn cầu, cuộc đua công nghệ toàn diện, biến đổi khí hậu khắc nghiệt, và đặc biệt là bài toán già hóa dân số đang âm thầm tạo áp lực.

Tăng trưởng kinh tế, phải đi cùng với tăng trưởng năng suất và hiệu quả, đặc biệt là trong những ngành dễ bị thay thế bởi tự động hóa, AI hay robot.

Nếu không kịp nâng cấp chính sách đào tạo nhân lực, thúc đẩy nghiên cứu phát triển, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số và số hóa toàn chuỗi giá trị, Việt Nam có thể gặp ngưỡng trần tăng trưởng. Thế nhưng điều khiến thế giới kỳ vọng nằm ở chỗ Việt Nam đang thay đổi từng ngày chứ không đứng yên. Những nỗ lực không ngừng nghỉ trong cả cách thể chế, đầu tư hạ tầng, nâng cấp năng lực quản trị và mở rộng hợp tác quốc tế đang biến đất nước hình chữ S trở thành một trung tâm sản xuất thương mại mới của thế giới. Từ Apple, Samsung, Intel đến các chuỗi bán lẻ lớn của Mỹ, Nhật hay Hàn Quốc, tất cả đang coi Việt Nam là trung tâm chiến lược, không còn là điểm đến phụ trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Việt Nam sẽ không đi lên chỉ bằng tài nguyên, cũng không chỉ dựa vào dân số vàng đơn thuần, mà chúng ta đang kiến tạo một vị thế mới, dựa trên nỗ lực thể chế, sự bền bỉ cải cách và khát vọng vươn lên của cả một dân tộc.

Thực tiễn xuất hiện ngay sau Bộ tứ trụ cột

Không lý thuyết, mà đi ngay vào thực tiễn khi Bộ tứ Trụ cột vừa được ban hành, như đã đón trước làn gió mới, Vinspeed của tỷ phú Phạm Nhật Vượng muốn làm nên “kỳ tích” chưa từng có tại Việt Nam – bằng việc đề xuất làm 1.541 km đường sắt cao tốc xuyên Việt trong 5 năm, tức là mỗi tháng nuốt chọn gần 26 km ray thép trên một mảnh đất chưa từng có kinh nghiệm làm HSR. Công nghệ thì còn đang học hỏi. Vậy mà Vinspeed, một công ty con của tập đoàn Vin Group lại dám đứng ra nhận hết từ vốn, công nghệ, tiến độ cho tới vận hành. Không chỉ xây tàu, họ còn đang muốn làm đầu máy, to xe, làm tín hiệu, cả một hệ sinh thái đường sắt cao tốc từ A tới Z, nếu họ làm được thì đó sẽ là bước ngoặt lớn trong lịch sử ngành hạ tầng Việt Nam.

Thế nhưng liệu chúng ta đang đứng trước một cuộc cách mạng thực sự hay chỉ đang bị cuốn theo kỳ vọng được thêu diệt quá đà? Nếu lộ trình làm đường cao tốc này được thực hiện đúng cam kết thì điều đó đồng nghĩa với việc là mỗi tháng Vinspeed sẽ phải hoàn thiện trung bình là 25,7 km đường day. Một tốc độ xây dựng cực kỳ ấn tượng đủ để xếp thứ hai toàn cầu về tốc độ thi công đường sắt cao tốc. Chỉ sau mỗi Trung Quốc, quốc gia được xem là bá chủ về năng lực hạ tầng.

Chúng ta chưa từng có kinh nghiệm thi công các tuyến HSR nào. Nền công nghiệp phụ trợ thì còn yếu, nguồn vốn thì không dồi dào và đặc biệt là hệ thống pháp lý lẫn thể chế đầu tư thì vẫn còn nhiều rào cản, một doanh nghiệp tư nhân lại sẵn sàng đứng ra gánh vác toàn bộ một dự án được xem như biểu tượng của khát vọng hạ tầng thế kỷ. Điều này thì không những đáng mừng mà còn thể hiện một cú chuyển mình lớn về vai trò của khối tư nhân trong những công trình mang tầm vóc quốc gia.

Tuy nhiên thì câu hỏi lớn nhất vẫn là liệu tất cả những điều này có khả thi không hay chỉ là một màn trình diễn truyền thông ấn tượng? Để trả lời thì ta cần phải nhìn vào thực tế toàn cầu. Trung Quốc, quốc gia nắm giữ mạng lưới đường sắt cao tốc lớn nhất thành tỉnh với hơn 42.000 km, chiếm khoảng 70% tổng chiều dài HSR toàn cầu. Họ từng hoàn thành tới 29.000 km HSR chỉ trong vòng có 5 năm và chỉ mất 38 tháng thi công tương đương với 34,7 km cho mỗi tháng. Như vậy, nếu Vinspeed hoàn tất tuyến Bắc Nam trong vòng 60 tháng với tốc độ trung bình là 25,7 km/ tháng thì về mặt kỹ thuật hoàn toàn không vượt quá ngưỡng khả thi. Đáng chú ý hơn là hàng loạt những điểm tương đồng giữa tuyến Bắc Nam Việt Nam với tuyến Bắc Kinh Thượng Hải của Trung Quốc. Chúng đều kết nối giữa thủ đô và trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước cùng chạy dọc theo trục ven biển phía đông có quy mô GDP bình quân đầu người tương đương khoảng 5500 đô tại thời điểm bắt đầu dự án và mật độ dân số hai bên tuyến nơi tính trong bán kính 100 km cũng không quá chênh lệch. Đặc biệt tuyến Bắc Kinh Thượng Hải cũng chính là tuyến HSR có hiệu quả tài chính tốt nhất thế giới và nó tạo ra lợi nhuận chỉ sau có vài năm hoạt động. Từ đây thì bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc là điều Việt Nam hoàn toàn có thể tham khảo từ mô hình vốn đến cách tổ chức vận hành IPO và khai thác thương mại bất động sản ga tàu.

Và quan trọng nhất vẫn là cách làm hai hòa lợi ích giữa trung ương và địa phương, nhà nước và tư nhân, yếu tố then chốt giúp mô hình đầu tư công PPP phát huy hiệu quả thực sự, chính vì vậy, nếu dự án đường sắt cao tốc lần này cán đích đúng hẹn thì đó không chỉ là một thành tựu của Vin, mà còn tiên phong triển khai mô hình PPP, mở ra một giai đoạn mới cho Việt Nam trong phát triển hạ tầng. Những dự án lớn được đưa vào khai thác sớm sẽ tạo ra cú hích mạnh và nhanh cho nền kinh tế. Vậy nên giấc mơ ăn sáng Hà Nội trưa thành phố Hồ Chí Minh mà Vinspeed từng đề cập hoàn toàn không còn là chuyện viễn tưởng nữa. Với tất cả những gì mà nhiều nhà kinh tế, khoa học đã được phân tích và chứng minh thì có thể khẳng định rằng nếu có một điểm vàng để Việt Nam bước vào kỷ nguyên hạ tầng đột phá thì chính là bây giờ.

Thế nhưng giả sử để Vin làm thì chúng ta sẽ có gì? Lợi ích đầu tiên dễ thấy nhất đó là tốc độ. Vinspeed cam kết hoàn thành toàn tuyến trong 5 năm, rút ngắn một nửa thời gian so với phương án ban đầu để ra. Câu chuyện về tốc độ xây dựng ở Việt Nam đã từng khiến cho nhiều người e ngại nhưng không thể phủ nhận rằng khối tư nhân đã có những minh chứng rất rõ nét từ các tuyến cao tốc do tập đoàn tư nhân thi công rất nhanh chóng; Tiếp theo thì là câu chuyện về kinh phí. Trong đề xuất của mình, Vinspeed đưa ra tổng mức đầu tư là khoảng 61 tỷ đô la, tức thấp hơn 6 tỷ đô la so với phương án ban đầu của nhà nước.

Trong đó thì doanh nghiệp sẵn sàng bỏ ra 12 tỷ đô la vốn tự có. Phần còn lại thì là vay từ nguồn nhà nước với lã suất 0%, thời gian trả là 35 năm và vận hành tuyến trong vòng 99 năm. Về lý thuyết, đây là một mô hình hợp tác công tư mà rủi ro tài chính được chuyển phần lớn cho phía doanh nghiệp. Nếu vận hành không hiệu quả, Vin sẽ tự gánh, còn nhà nước thì không phải bảo lãnh hay lo về nợ công. Trong bối cảnh nhiều dự án hạ tầng đã từng gặp phải bài toán đội vốn như Cát Linh Hà Đông tăng tới gần 60%, nhổn ga Hà Nội tăng 66% hay Biến Thành Suối Tiên tăng hơn 100% thì phương án tài chính này ít nhiều tạo ra cảm giác yên tâm hơn. Tất nhiên là bài học từ những công trình đó cũng cho thấy rằng việc đội vốn không hẳn chỉ đến từ nhà thầu hay đối tác quốc tế mà còn là những thách thức trong quản lý, điều phối và phê duyệt.

Chính vì vậy, nếu có một mô hình mới nơi mà doanh nghiệp chữ trách nhiệm toàn diện và chủ động kiểm soát rủi ro thì ít nhất áp lực lên ngân sách quốc gia cũng sẽ được giảm đáng kể. Một điểm cộng nữa, nếu Vspeed tham gia, khả năng sẽ tạo ra công ăn việc làm và nội địa hóa công nghệ. Với truyền thống đầu tư bài bản và công nghệ, Vingroup từng tạo ra thương hiệu ô tô riêng VinFast chỉ trong một thời gian ngắn, sử dụng khung gầm từ Đức và dây chuyền sản xuất tự động hiện đại. Kinh nghiệm ấy có thể chuyển hóa thành lợi thế khi họ làm đường sắt cao tốc từ đầu máy, toa xe, thiết bị tín hiệu cho tới vận hành, bảo dưỡng đều có thể dần do người Việt làm chủ. Và điều này không chỉ tạo ra hàng vạn việc làm chất lượng cao mà còn giúp giảm phụ thuộc vào nước ngoài trong giải hạn, tiết kiệm chi phí vận hành và duy tu hàng tỷ đô la qua từng năm, và còn rất nhiều tiểu lợi ích khi phân tích chủ đề này.

Tuy nhiên thì cũng không thể không thận trọng vì một dự án lớn luôn đi kèm với những rủi ro lớn. Việc kiểm soát quyền lực doanh nghiệp trong lĩnh vực hạ tầng đòi hỏi phải có cơ chế minh bạch, giám sát độc lập và đảm bảo rằng mục tiêu công phục vụ lợi ích xã hội sẽ không bị lưu mở bởi những khoản lợi ích kinh tế thuần túy. Những lo ngại về khả năng mở rộng bất động sản, khai thác đất quanh các ga tàu nếu không được quản lý tốt thì hoàn toàn có thể dẫn tới sự lệch pha trong định hướng ban đầu. Và cũng cần phải nhấn mạnh rằng công nghệ đường sắt cao tốc không phải là thứ có thể học được trong một sớm chiều. Nó đòi hỏi một quá trình chuyển giao nghiêm túc, đầu tư chiều sâu và sự bền bỉ với thời gian.

Thế nhưng nếu mà Vin làm được thì đây không chỉ là một dấu mốc trong công nghiệp hạ tầng Việt Nam mà còn là một di sản để lại cho thế hệ mai sau. Một đất nước có đường sắt cao tốc do chính doanh nghiệp nội tự thiết kế, vận hành và bảo trì. Đó sẽ là hình ảnh của một quốc gia hiện đại, tự tin và hội nhập. Và nếu có thời điểm nào để đặt niềm tin vào sự chuyển mình đó và hợp lý nhất thì có lẽ rằng chính là lúc này.

Thực tế thì Việt Nam đã có những mầm xanh đầy triển vọng. VinGroup với VinFast sẽ không chỉ bán ô tô mà đang từng bước khẳng định Việt Nam là một phần của bản đồ công nghiệp xanh toàn cầu. FPT thì không chỉ xuất khẩu phần mềm mà còn xuất khẩu cả chất xám, tư duy tổ chức và giải pháp công nghệ mang bản sắc Việt. Những doanh nghiệp như Masan, Vinamil, Viettel… đã và đang vươn mình ra khỏi thị trường nội địa và tiến sâu vào các thị trường quốc tế từ Đông Nam Á đến châu Phi và châu Mỹ.

Đừng để các kỳ lân trong nền kinh tế luôn bị rằng co giữa suy nghĩ, được vinh danh vì đóng góp tăng trưởng nhưng cũng luôn bị nghi ngờ về tính chính trị. Việt Nam đang bước vào một thời kỳ chính danh hóa khu vực tư nhân, gọi giới doanh nhân là những chiến sĩ kinh tế, khẳng định tư nhân là một trong những lực lượng trung tâm của phát triển quốc gia và đặc biệt đặt kỳ vọng cao vào việc hình thành các doanh nghiệp đầu tàu có khả năng kéo cả chuỗi giá trị đi lên.

Thế kỷ 21, đang chứng kiến sự định hình lại của chuỗi cung ứng toàn cầu, trật tự năng lượng và cấu trúc quyền lực địa chiến lược. Trong đó, Việt Nam đang nổi lên không chỉ là điểm đến sản xuất mà là trung tâm của những quyết định mang tính điểm xoay chiến lược. Năm 2025 – năm bản lề quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam, với mục tiêu tăng trưởng GDP ít nhất 8%, hướng tới mức tăng trưởng hai con số trong giai đoạn tiếp theo.

Quyết tâm lớn ấy, được thể hiện ngay từ đầu năm 2025, bằng cú huých đầu tiên, là Ngân hàng Nhà nước đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 16%, tương đương hơn 2,5 triệu tỷ đồng, và hơn 2,5 triệu tỷ đồng này sẽ được “bơm” vào nền kinh tế như thể hiện quyết tâm thay dòng máu mới, để thúc đẩy tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững. Đây là một bước đi táo bạo và đầy tham vọng của chúng ta, nhưng liệu nó sẽ thúc đẩy nền kinh tế bứt phá mạnh mẽ, hay lại tiềm ẩn nguy cơ bong bóng tài sản và thảm cảnh khủng hoảng tài chính như Trung Quốc.

Câu hỏi đặt ra  là tiền sẽ đi đâu? Bởi dòng vốn nếu không được dẫn đúng hướng, có thể sẽ nuôi dưỡng những quả bong bóng thay vì đổ vào sản xuất, tạo ra ảo tưởng thay vì giá trị. Khi tiền chỉ chảy vào chứng khoán và bất động sản, những nơi sinh lời nhanh nhất nhưng không tạo ra giá trị thực, nền kinh tế thực gần như bị bỏ rơi. Ngành ngân hàng đã được yêu cầu giảm lãi suất cho vay, mở rộng tín dụng có kiểm soát, ưu tiên các lĩnh vực sản xuất, công nghệ, nhà ở xã hội. Cùng lúc đó, dòng vốn đổ vào đầu cơ tài sản, bất động sản cao cấp, chứng khoán lướt sóng thì đang bị siết chặt dần qua các quy định về room tín dụng, điều kiện vay vốn và định hướng thanh tra. Mục tiêu rất rõ ràng là đưa tiền vào đúng chỗ, nơi tạo ra của cải vật chất, công ăn việc làm thật và giá trị thật cho nền kinh tế. Khi tín dụng được dẫn vào sản xuất, công nghệ, nhà ở cho người thu nhập thấp, thay vì những cuộc đua thổi giá đất hay đánh bạc trên thị trường chứng khoán, thì niềm tin thị trường sẽ được phục hồi trên một nền móng vững chắc.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *